Truyện cổ tiếng Nhật: 白米城 – Lâu đài gạo trắng

Một câu chuyện cổ tích rất hay tôn vinh tài lãnh đạo của các tướng lĩnh thời xưa... Cùng khám phá với Trung tâm tiếng Nhật Kosei nha!!


Học tiếng Nhật qua truyện cổ tích


>>> Ngữ pháp tiếng Nhật N2 Bài 11: Những mẫu câu diễn đạt ý không liên quan tới, không màng tới

>>> Học tiếng Nhật qua bài hát Rơi vào lưới tình (恋をしよう)

Truyện cổ tiếng Nhật: 白米城 – Lâu đài gạo trắng 



むかしむかし、山(やま)の上(うえ)に小(ちい)さな山城(やまじろ)があり、そこへ隣(となり)の国(くに)が攻(せ)めてきました。
Ngày xửa, ngày xưa, trên ngọn núi nọ có một lâu đài nhỏ, ở nơi đó các nước láng giềng tấn công.
お城(しろ)の人々(ひとびと)はすぐにお城(しろ)へ逃げ込(こ)み、隣(となり)の国(くに)の軍勢(ぐんぜい)が中(なか)に入(はい)って来(く)るのをけんめいに防(ふせ)ぎました。
Những người của tòa thành nhanh chóng chạy vào trong lâu đài, và ngăn cản quân đội nước láng giềng tấn công vào bên trong tòa lâu đài.
隣(となり)の国(くに)の軍勢(ぐんぜい)も山(やま)の上(うえ)にあるお城(しろ)を攻(せ)め落(お)とす事(こと)が出来(でき)ず、戦(たたか)いは何日(なんにち)も何日(なんにち)も続(つづ)きました
Quân đội nước láng giếng vì không thể tấn công được tòa thành trên núi nên cuộc chiến cứ kéo dài liên tục ngày này qua ngày khác.
(敵(てき)の軍勢(ぐんぜい)は、長(なが)い城攻(しろぜ)めで疲(つか)れておろう。もう少(すこ)しがんばれば、あきらめて囲(かこ)みをとくやもしれぬ)
Quân đội của địch vì tấn công tòa thành trong thời gian quá dài nên sức lực cũng suy giảm, nếu cố gắng thêm một chút, bọn chúng sẽ từ bỏ.
お城(しろ)の殿(との)さまがそう思(おも)っていたところヘ、家来(けらい)がかけつけてきて言(い)いました。
Vua của lâu đài cũng nghĩ như vậy, cũng đã gọi những gia nhân trong nhà đến.
「殿(どの)、大変(たいへん)でございます。城(しろ)の水(みず)が、ついになくなってしまいました」
Thưa đức ngài, xảy ra chuyện rồi. Những giọt nước cuối cùng trong thành đã hết rồi ạ.
「なに、水(みず)がない!?」
Cái gì, không có nước sao?
「はい。米(こめ)と塩(しお)のたくわえは、まだまだ十分(じゅうぶん)なのですが」
Vâng. Gạo và muối để dành lại thì vẫn còn đủ nhưng mà hết nước.
「米(こめ)や塩(しお)があっても、水(みず)がなくてはどうにもならん」
Dù có gạo và muối mà không có nước thì cũng chẳng làm được gì cả.
殿(との)さまが肩(かた)を落(お)としていると、そばにいた大将(たいしょう)の一人(ひとり)が言(い)いました。
Ngay khi nhà vua tỏ ra bất lực, thì một vị tướng bên cạnh lên tiếng:
「殿(との)。このまま篭城(ろうじょう)しても、味方(みかた)の士気(しき)が下(さ)がるだけです。この上(うえ)は覚悟(かくご)を決(き)めて、すぐさま敵(てき)の中(なか)ヘうって出(で)る事にいたしましょう」
Thưa nhà vua, dù chúng ta cứ để như thế này thì tinh thần của các bên đồng minh cũng sẽ đi xuống. Trước hết, chúng ta hãy quyết tâm sẵn sàng, đi ra và tấn công quân địch.
「・・・・・・それしか、あるまい」
Như thế thì liệu có được...
殿(との)さまの許(ゆる)しをうけた大将(たいしょう)が最後(さいご)の合戦(かっせん)を味方(みかた)の兵(へい)に知(し)らせようと本丸(ほんまる)から降(お)りて来(き)た時(とき)、百姓(ひゃくしょう)あがりの馬引(うまび)きの男(おとこ)が言(い)いました。
Các vị tướng sĩ sau khi nhận được sự cho phép từ nhà vua đã xuống trung tâm của tòa thành và thông báo tới các binh sĩ về trận đánh cuối cùng, một người đàn ồng kéo xe ngựa nói.
「旦那(だんな)さま、死(し)ぬ事(こと)はいつだって出来(でき)ますだ。それよりも、わしに考(かんが)えがありますで」
Thưa ngài, nếu làm như vậy chúng ta có thể chết bất cứ lúc nào. Vì thế tôi có suy nghĩ thế này.
そう言(い)って馬引(うまび)きは、大将(たいしょう)の耳(みみ)に何(なに)かをささやきました。
Người đàn ông nói xong, liền thì thầm vào tai vị tướng quân một điều gì đó.
「なるほど。ものはためしということもある。やってみても、損(そん)はない。・・・みなの者(しゃ)、城(しろ)にある米(べい)と塩(しお)を残(のこ)らず集(あつ)めよ」
Ra là như vậy, Chúng ta có thể làm thử. Nếu làm được thì chúng ta thậm chí sẽ còn không bị tổn thất gì...Nào mọi người, hãy cùng mang hết gạo và muối còn lại ra đây.
大将(たいしょう)はお城中(しろなか)からお米(こめ)と塩(しお)を集(あつ)めると、馬(うま)を洗(あら)う大(おお)きなたらいの中(なか)に入(い)れました。
Tướng quân tập trung hết gạo và muối bên trong tòa thành, rồi để trong một chiếc chậu rửa lớn.
そしてお米(こめ)と塩(しお)の入(はい)った大(おお)きなたらいをお城(しろ)の外(そと)へ持(も)ち出(だ)すと、そこへ馬(うま)を何頭(なんとう)も連(つ)れて来(き)ました。
Sau đó chúng ta sẽ mang gạo và muối này ra ngoài tòa thành, rồi sẽ để những con ngựa kéo đến đó.
その場所(ばしょ)は南向(みなみむ)きの日当(ひあ)たりの良(よ)いところで、敵(てき)の陣地(じんち)から一番良(いちばんよ)く見(み)えるところです。
Đó là nơi hướng tới phía nam, sẽ là vị trí tốt nhất để nhìn được quân địch.
「さあ、始(はじ)めろ」
Vậy thì chúng ta bắt đầu nào!
大将(たいしょう)が合図(あいず)をすると馬(うま)の世話(せわ)をする家来(けらい)たちがたらいの中(なか)から手(て)おけでお米(こめ)と塩(しお)をすくい、ザーッ、ザーッと馬(うま)の背中(せなか)にかけて馬(うま)を洗(あら)うふりをしました。
Khi tướng quân ra tín hiệu, những người làm sẽ lấy gạo và muối bằng tay từ trong chậu để chăm sóc cho những con ngựa, chúng ta sẽ giả vờ tắm rửa cho những con ngựa đó.

さて、遠(とお)くから山城(やまじろ)を見(み)ていた敵(てき)の大将(たいしょう)は、山城(やましろ)の兵(へい)たちがのんびりと馬(うま)を洗(あら)っている様子(ようす)を見(み)てびっくりです
Trước tiên, những tướng quân bên quân địch sẽ rất ngạc nhiên khi nhìn thấy quân lính chúng ta đang thoải mái tắm rửa cho lũ ngựa.
「何(なん)と! そろそろ水(みず)のたくわえがなくなる頃(ころ)だと思(おも)っていたが、あの様(さま)におしげもなく水(みず)を使(つか)って馬(うま)を洗(あら)うとは。それにひきかえ、こちらのたくわえは残(のこ)りわずか。このまま戦が長引(ながび)いては、こちらが不利(ふり)だ。・・・仕方(しかた)ない、引(ひ)き上(あ)げよう」
Cái gì! Ta đã nghĩ là nước tích trữ của chúng đã hết, nhưng sao chúng còn có nước để tắm cho ngựa thế kia. Chúng đã vẫn lưu trữ được nước sao? Nếu cuộc chiến vẫn tiếp tục kéo dài như thế này thì sẽ rất bất lợi cho chúng ta. Không còn cách nào nữa rồi, chúng ta phải rút quân về.
こうして敵(てき)の軍勢(ぐんぜい)は、自分(じぶん)たちの国(くに)ヘ(へ)と引(ひ)き返(かえ)しました。
Bằng cách này, quân địch sẽ tự mình rút quân về nước.
なぜ敵(てき)がお米(こめ)と塩(しお)を水を見間違(みまちが)えたかと言(い)うと、敵陣(てきじん)から見(み)ると馬(うま)に降(ふ)りかける白米(はくまい)と塩(しお)が日(ひ)の光(ひかり)にキラキラと光り輝(かがや)いて、本物(ほんもの)の水(みず)で馬(うま)を洗(あら)っている様(よう)に見(み)えたからです。
Tại sao quân địch lại nhầm gạo và muối thành nước là bởi vì, từ bên phía quân địch nhìn sang, chúng sẽ nhìn thấy những dòng gạo và muối trắng tỏa sáng lấp lánh trong ngày nắng, giống như đang tắm cho ngựa bằng nước thật vậy.
この事(こと)があってから人々(ひとびと)は、この山城(やまじろ)を『(「)白米城(はくまいしろ)』(」)と呼(よ)ぶ様(よう)になったそうです。
Kể từ sau câu chuyện này, tòa thành được mọi người gọi với tên mới là Lâu đài gạo trắng.

Nhận xét